Ảnh hưởng đối với môi trường tự nhiên Mèo_hoang

Mèo hoang có thể là một loài ăn thịt đáng sợ đối với các sinh vật nhỏ.

Ảnh hưởng của việc mèo nhà xâm nhập vào thế giới tự nhiên là vấn đề gây tranh cãi suốt một thế kỷ. Một bản báo cáo năm 1916 của Ủy ban Nông nghiệp bang Massachusetts mang tên The Domestic Cat: Bird Killer, Mouser and Destroyer of Wildlife (tạm dịch Mèo nhà: Sát thủ của chim, chuột và là Kẻ hủy diệt của tự nhiên) trích dẫn ý kiến của nhà điểu cầm học Edward Howe Forbush như sau:

Những câu hỏi về sự hữu dụng hay vô ích của mèo nhà, và vấn đề liên quan đến việc hạn chế phần nào các hoạt động ngoài trời của chúng đang gây chia rẽ rất lớn. Cuộc tranh cãi đã đi đến giai đoạn quyết liệt. Các nhà y học, những người kiểm lâm và những người yêu chim đang yêu cầu các nhà lập pháp ban hành những đạo luật hạn chế. Những người yêu mèo cuồng nhiệt cũng khích động nhau tham gia vào cuộc đấu tranh. Trước sự kích thích của óc bè phái những lời phát ngôn thiếu nghiêm túc và thiếu kiềm chế đã được nói ra.
— Edward Howe Forbush, [14]

Bản báo cáo này dựa vào tác phẩm Extinct Birds (tạm dịch: Những loài chim đã bị tuyệt chủng) xuất bản năm 1905 bởi nhà động vật học Walter Rothschild, người đã tuyên bố rằng, "con người và các tùy tùng của họ, mèo, chuột, chó, heo là những thứ tệ hại nhất và trên thực tế là nhân tố quan trọng duy nhất gây ra sự hủy diệt của các loài chim tại bất cứ đâu mà họ tới."[15] Rothschild đã đưa ra một số ví dụ về việc mèo đã hây ra sự tuyệt diệt của một số loài chim trên các đảo.

Mèo hoang cũng bị nhiều nông dân và nhiều người kiểm lâm xem là loài có hại. Các tổ chim nằm gần mặt đất thường là mục tiêu của chúng, tỉ như là tổ của các loài gà lôi và gà gô. Những người coi rừng thường đặt bẫy hay thậm chí bắn hạ những con mèo hoang mon men lại gần khu vực họ canh giữ[cần dẫn nguồn].

Úc

Tập tin:Feral cat and Major Mitchell Cockatoo.JPGMột con mèo hoang đang ăn thịt một con vẹt Cockatoo bản địa.

Mèo hoang ở Úc là nguyên nhân gây ra sự suy giảm hoặc tuyệt chủng của các quần thể sinh vật bản địa trên các đảo - nguyên do là chúng là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến các loài chim sống gần mặt đất hay các loài thú nhỏ bản địa.[13] Chúng cũng là nhân tố gây cản trở lớn đối với các nỗ lực tái định cư cho các loài vật đang bị đe dọa tuyệt chúng ở những khu vực mà các quần thể của chúng từng sinh sống trước kia - nguyên do là càc loài vật này sẽ bị các con mèo hoang ăn thịt khi chúng vừa mới được thả ra môi trường tự nhiên.[16] Nhiều nhà môi trường học Úc cho rằng mèo hoang là một thảm họa sinh thái đối với nước Úc; chúng sinh sống trong mọi hệ sinh thái ngoại trừ rừng mưa nhiệt đới, và chúng cũng góp phần làm tuyệt chủng nhiều loài thú nhauthú có túi.[17] Cũng có nhà nghiên cứu không đồng tình với cách nhìn nhận này (Abbot 2002); một số ý kiến khác cho rằng hiện có ít bằng chứng mạnh cho thấy mèo hoang gây nhiều ảnh hưởng đến các sinh vật bản địa ở lục địa, chúng chỉ có ảnh hưởng nghiêm trọng tại các khu vực đảo (Jones 1989; Wilson et al. 1992).[13] Những khó khăn trong việc tách bạch các hậu quả của mèo hoang với một "kẻ xâm lược" khác là cáo cũng góp phần cản trở sự tiến triển của các nghiên cứu này. Mèo đã cùng tồn tại với các loài thú khác ở Tasmania gần 200 năm.[12] Một chương trình nhằm bảo vệ các loài động vật bản địa mang tang tên Lá chắn phương Tây (Western Shield) - bao gồm việc tiêu diệt cáo trên quy mô lớn - đã giúp nhiều loài động vật bản địa được phục hồi nhanh chóng bất chấp sự tồn tại của mèo hoang tại các khu vực bảo vệ.[12] Tuy nhiên, một nghiên cứu xuất bản vào năm 2005 lần đầu tiên cho thấy nhửng bằng chứng về việc mèo hoang gây ra sự suy giảm đối với các loài bản địa.[18] Một thí nghiệm tổ chức ở Heirisson Prong (Tây Úc) đã so sánh số lượng các loài bản địa ở ba khu vực nhỏ, trong đó một khu vực đã được tiêu trừ cáo và mèo, một khu vực đã tiêu trừ cáo và một khu vực để nguyên dùng làm đối chứng. Kết quả cho thấy ở khu vực chỉ tiêu trừ cáo và khu vực đối chứng số lượng sinh vật bản địa vẫn thấp hơn.

Mèo cũng có thể đóng một vai trò trong hệ sinh thái ở Úc trong tương lai khi chúng cùng với cáo sẽ kiềm chế sự phát triển của thỏ nhất là ở khu vực có khí hậu khô; tuy nhiên bản thân chúng cũng gây ra những tác hại đến môi trường.[17] Mèo được tin rằng là nhân tố gây ra sự tuyệt diệt của vẹt thiên đường, loài chim duy nhất bị tuyệt chủng từ khi người châu Âu đặt chân đến Úc.

Một số tin đồn rằng một số con mèo hoang sống ở Úc trở nên to lớn tới mức một số người quan sát ít kinh nghiệm đã lầm tưởng chúng với báo sư tử hoặc các loài tương tự. Thông tin này phần nào có vẻ đúng sự thật hơn là hư cấu vì gần đây một con vật to lớn thuộc họ Mèo vừa bị bắn[19] tại khu vực Gippsland của Victoria. Cuộc thử nghiệm ADN sau đó cho thấy con vật này thuộc loài mèo nhà Felis silvestris catus.[20] Những thông tin sau đó về sự xuất hiện của những con mèo hoang to lớn gần như mỗi tháng ở Úc cùng những bằng chứng cho thấy có tồn tại những quần thể của giống mèo khổng lồ này ở Đông Nam Victoria và New South Wales.[21]

New Zealand

Hệ động vật ở New Zealand đã tiến hóa hàng triệu năm với sự vắng mặt của các loài động vật có vú (ngoại trừ một vài loài dơi). Vì vậy, các loài chim đã thay thế vai trò vốn có của động vật có vú trong các quần xã khác; thậm chí nhiều loài chim ở khu vực này không thể bay. Sự xâm nhập của động vật có vú sau khi người Māori định cư ở đây từ thế kỷ thứ 12 đã gây ra ảnh hưởng to lớn đến sự đa dạng sinh học của khu vực. Tiếp đó những người Châu Âu đã đem mèo đến New Zealand và sự hiện diện của mèo hoang được ghi nhận vào những thập niên cuối thế kỷ 19.[22] Theo các ước tính cho thấy mèo là thủ phạm góp phần gây ra sự tuyệt diệt của sáu loại chim đặc hữu, hơn 70 phụ loài địa phương cùng với sự suy giảm nghiêm trọng của các quần thể chim và bò sát.[23]

Các khu vực đảo

Hậu quả

Loài Hồng tước đảo Stephens trở nên tuyệt chủng trong vòng hai năm kể từ khi mèo xuất hiện trên đảo Stephens

Nhiều khu vực đảo có các loài động vật mang đặc tính ngờ nghệch sinh thái; tức chúng không có phản ứng tự vệ cần thiết trước các loài ăn thịt như mèo.[24] Mèo hoang khi được du nhập vào các khu vực này sẽ gây ra ảnh hưởng tai hại đến sự đa dạng sinh học tại đó. Chúng có liên quan tới sự tuyệt chủng của một số loài sinh vật và sự tuyệt diệt tại địa phương của một số loài khác, ví dụ như của loài hutia ở vùng Caribe, chim hải âu petrel đảo Guadalupe ở vùng biển của México tại Thái Bình Dương, loài hồng tước đảo Stephens; theo một nghiên cứu thống kê mèo hoang là thủ phạm chính gây ra sự tuyệt chủng cho 40 phần trăm số loài được nghiên cứu.[25] Theo Moors và Atkinson viết năm 1984: "Không có loài ăn thịt du nhập nào khác có thể gây ra hậu quả ở quy mô phổ biến như vậy."[24]

Mèo hoang, cùng với thỏ, một số loài chim biển, và cừu tạo nên quần thể động vật gần như là duy nhất ở quần đảo Kerguelen tại miền nam Ấn Độ Dương.

Phục hồi các loài bản địa

Trước những hậu quả do mèo gây ra đổi với hệ sinh thái trên các đảo và một số nơi khác, nhiều nhà bảo vệ môi trường thuộc lĩnh vực phục hồi sinh thái trên đảo đã thực thi công việc loại bỏ mèo hoang ra khỏi khu vực này.[1][Gc 3] Cho đến năm 2004, mèo hoang đã bị loại trừ ở 48 đảo, trong số đó có cả hệ thống các đảo ngoài khơi xa của New Zealand được quy định là nơi bảo tồn các loài chim,[26] cùng với đảo Macquarie của Úc. Các dự án quy mô lớn hơn cũng được tiến hành, bao gồm dự án loại trừ mèo ra khỏi đảo Ascension. Khi được du nhập vào đảo ở thế ký 19 mèo đã gây ra sự sụt giảm mạnh của các quần thể chim biển làm tổ tại đây. Dự án được bắt đầu từ năm 2002 và đến năm 2004 mèo đã bị loại trừ khỏi đảo. Kể từ đó, 7 loài chim biển vốn biến mất khỏi đảo trong vòng 100 năm đã xuất hiện trở lại.[27]

Tuy nhiên việc loại trừ mèo trong một số trường hợp cũng gây ra những hậu quả phụ khôn lường, ví dụ như ở đảo Macquarie (ngoài khơi Tasmania) sự vắng bóng của mèo đã khiến cho bọn chuột và thỏ hoành hành và gây hại cho các loài chim biển bản địa.[28][29][30] Thế là việc diệt trừ thỏ và chuột lại được lên lịch vào năm 2007, dự kiến quá trình này sẽ kéo dài bảy năm và ngốn mất 24 tỷ đô la.[31]

Lai giống tự nhiên với mèo rừng và các loài thú họ mèo

Mèo hoang đã giao phối với các loài mèo rừng trên thế giới, trường hợp đầu tiên được ghi nhận xảy ra cách nay hơn 200 năm. Mức độ lai giống này vẫn đang bị tranh cãi, sự tranh cãi này phụ thuộc vào việc mèo nhà được coi là một loài riêng biệt so với mèo rừng hay cùng loài với mèo rừng.[32](xem thêm ô nhiễm di truyền) Ở một số khu vực, mức độ lai giống cao đã gây ra nhiều khó khăn cho việc phân biệt mèo rừng, mèo hoang với mèo lai được thuần hóa; điều này khiến cho công tác bảo tồn trở nên phức tạp.[33] Một số nhà nghiên cứu cho rằng mèo rừng thuần chủng không còn tồn tại nữa, tuy nhiên những ý kiến khác không đồng tình với luận điểm này.[32] Một nghiên cứu ở Scotland cho rằng mặc dù mèo rừng thuần chủng ở Scotland nhiều khả năng không còn tồn tại; quần thể mèo rừng hiện tại của nước này có sự khác biệt lớn với mèo nhà, mèo hoang và vì vậy chúng đáng được bảo vệ.[34]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Mèo_hoang http://news.ninemsn.com.au/article.aspx?id=718505 http://www.smh.com.au/news/environment/up-against-... http://www.strangenation.com.au/Articles/paulclach... http://publish.csiro.au/nid/144/paper/WR98092.htm http://www.publish.csiro.au/paper/WR01011.htm http://www.deh.gov.au/biodiversity/invasive/public... http://www.environment.nsw.gov.au/pestsweeds/TheTh... http://www.parks.tas.gov.au/macquarie/rabbitsfaq.h... http://www.abc.net.au/news/newsitems/200607/s16874... http://cats.about.com/od/behaviortraining/qt/catbe...